Trong nhạc nghệ thuật Bolero (vũ điệu)

Có rất nhiều tác phẩm được gọi là bolero trong nhạc nghệ thuật (ở mặt nghĩa nào đó là nhạc cổ điển) không phù hợp để xếp vào các thể loại đã nói ở phần trên.

  • Bolero của Maurice Ravel là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, được viết dưới dạng bản phổ dành cho ba lê nhưng hiện nay thường được biểu diễn ở các buổi hòa nhạc. Nguyên thủy nó được gọi tên là Fandango nhưng sở hữu những điểm tương đồng về mặt nhịp điệu với thể loại khiêu vũ bolero của Tây Ban Nha ở chỗ theo nhịp 3/4 và có một liên ba ở phách thứ hai của mỗi ô nhịp.
  • Chopin viết bolero dành cho piano solo (Op. 19), tuy nhiên nhịp điệu của tác phẩm này giống với polonaise hơn. Chopin là bạn thân của Pauline Viardot - con gái của giọng nam cao Tây Ban Nha Manuel García (người đã mang bolero đến Paris, Pháp).
  • Debussy viết một bản bolero trong La Soirée dans Grenada
  • Bizet viết một bản bolero trong Carmen
  • Saint-Saëns viết một bản bolero có nhan đề El desdichado dành cho hai người hát cùng dàn nhạc
  • Set đầu tiên của Spanish Dances (Op. 12) của Moszkowski kết thúc bằng một bản bolero.
  • Lefébure-Wély viết Bolero de Concert dành cho organ.
  • Khúc bolero trích từ operetta Chilpéric của Hervé đã được họa sĩ Toulouse-Lautrec khắc họa trong bức tranh Marcelle Lender (1895).
  • Friedrich Baumfelder viết Premier Bolero, Op. 317 dành cho dương cầm.
  • Charles-Auguste de Beriot viết một bản bolero trong concerto nổi tiếng "Scene de Ballet" dành cho vĩ cầm và dương cầm (hoặc dành cho dàn nhạc).

Trong một số tác phẩm bolero của nhạc nghệ thuật, cái gốc không phải nằm ở bolero mà nằm ở habanera (tiền thân Cuba của tango; là một loại nhạc được yêu thích vào giữa thế kỷ 19, thường có mặt trong các vở opera Pháp và zarzuela Tây Ban Nha vào thế kỷ 19 và 20).[19]